Sơ lược Ái (Phật giáo)

Có nhiều cách phân loại Ái:

  1. Dục ái (tiếng Trung: 欲愛, tiếng Phạn: kāmatṛṣṇā), ham mê xác thịt.
  2. Hữu ái (tiếng Trung: 有愛, tiếng Phạn: bhavatṛṣṇā), ham muốn tồn tại.
  3. Phi hữu ái (tiếng Trung: 非有愛, tiếng Phạn: vibhavatṛṣṇā), hoặc Đoạn ái, là lòng ham muốn tiêu diệt.

Ba loại ái này là nội dung của chân lý thứ hai (tập đế) trong Tứ diệu đế. Dựa trên giác quan, người ta phân biệt ái thuộc sắc, thanh âm, mùi thơm, vị ngon ngọt, tiếp xúc và tư tưởng. Dựa trên Ba thế giới có thứ Ái thuộc dục giới, Ái thuộc sắc giới (tiếng Trung: 色愛, tiếng Phạn: rūpatṛṣṇā) và Vô sắc giới (hay vô sắc ái, tiếng Trung: 無色愛, tiếng Phạn: arūpatṛṣṇā). Trong giáo lý Duyên khởi với mười hai nhân duyên hệ thuộc (tiếng Phạn: pratītya-samutpāda), Ái do Thụ (tiếng Trung: 受, tiếng Phạn: vedanā) sinh ra, và bản thân Ái lại sinh ra Thủ (tiếng Trung: 取, tiếng Phạn: upādāna).

Trong giai đoạn Phật giáo nguyên thuỷ, người ta tin rằng Ái là nguyên nhân duy nhất của khổ và vì vậy xem nó là nguyên nhân của sinh tử, Luân hồi. Về sau, người ta thấy rằng thoát khỏi Ái chưa đủ mà cần phải dứt bỏ sự chấp Ngã (Vô ngã) mới được giải thoát. Ngã là gốc của Ái vì nếu xem Ngã là một thể tồn tại độc lập thì mọi thứ liên quan đến Ngã đều dễ sinh ra Ái. Người ta tiến đến giải thoát bằng tri kiến "cái này không phải là ta, cái này không phải của ta" và như thế, Ái tự hoại diệt. Ái xuất hiện trong thất tình, ngũ trần, lục dục nhưng đây là những cạm bẫy cần phải tránh xa, những thứ này không thể mãi còn, làm chúng sanh sinh lòng ham muốn tâm tính bị dao động, tiêu trừ phước đức cuối cùng không thể tránh khỏi quả báo Khổ về sau.